Mục lục
Bài viết của Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Bệnh viêm ruột mới khởi phát sau khi cấy ghép thường xuất hiện muộn trong quá trình theo dõi, với thời gian chậm trễ trung bình đến 91 tháng. Biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm ruột mới khởi phát giống với những biểu hiện xảy ra trong dân số nói chung, bao gồm tiêu chảy ra máu và đau bụng.
1. Bệnh viêm ruột mới khởi phát
Mặc dù bệnh viêm ruột được đặc trưng bởi khả năng sinh bệnh tự miễn và bệnh nhân được cấy ghép thận đã bị ức chế miễn dịch. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ mắc bệnh viêm ruột sau ghép tạng đặc lên đến 550 trường hợp/ 100000 cá thể, cao hơn xấp xỉ 10 lần so với tỷ lệ được quan sát trong dân số chung (khoảng 7-10 ca/ 100000 cá thể).
Bệnh viêm ruột mới khởi phát sau ghép thận không phổ biến, chỉ có 46 trường hợp được báo cáo trong y văn. Thêm 7 trường hợp được báo cáo bởi một nghiên cứu đa trung tâm của Pháp. Hơn nữa, hầu hết các bệnh viêm ruột mới khởi phát xảy ra ở những người nhận ghép gan. Chỉ khoảng 5% bệnh viêm ruột liên quan đến ghép tạng đặc xảy ra ở những người nhận thận. Điều thú vị là 1 nghiên cứu đa trung tâm gần đây về bệnh viêm ruột sau ghép thận đã không tìm thấy mối tương quan giữa bệnh tự miễn dịch từ trước hoặc điều trị ức chế miễn dịch với bệnh viêm ruột trước hoặc sau ghép thận.
2. Biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm ruột mới khởi phát
Bệnh viêm ruột mới khởi phát sau khi cấy ghép thường xuất hiện muộn trong quá trình theo dõi, với thời gian chậm trễ trung bình đến 91 tháng. Biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm ruột mới khởi phát giống với những biểu hiện xảy ra trong dân số nói chung, bao gồm tiêu chảy ra máu và đau bụng. Các đặc điểm mô học của viêm ruột sau ghép thận là sự mở rộng của lớp đệm bởi thâm nhiễm lymphoplasmacytic dày đặc với plasmacytosis cơ bản, biến dạng kiến trúc crypt và viêm màng túi.
3. Diễn biến của bệnh viêm ruột sau ghép thận
Diễn biến của bệnh viêm ruột sau ghép thận có vẻ mạnh hơn nhiều so với bệnh viêm ruột trong dân số nói chung. Bệnh có liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong và quản lý điều trị khó khăn, đặc biệt là do sự tương tác có thể xảy ra giữa thuốc ức chế miễn dịch và liệu pháp đặc hiệu với bệnh viêm ruột.
Corticosteroid có thể làm thuyên giảm bệnh viêm ruột về mặt lâm sàng, nhưng chúng không thể duy trì nó dưới dạng đơn trị liệu. Nguyên nhân có thể là do chúng thất bại trong việc gây chết tế bào lympho T trưởng thành, cho phép các đợt cấp bệnh viêm ruột mãn tính và cấp tính.
4. Chẩn đoán bệnh viêm ruột sau ghép thận
Bệnh viêm ruột có thể xuất hiện như 1 đợt cấp đã có từ trước hoặc hiếm hơn là bệnh viêm ruột mới khởi phát xảy ra ở những bệnh nhân không có bất kỳ triệu chứng nào trước đó. Các bệnh mới khởi phát sau cấy ghép có thể diễn biến lâm sàng tích cực hơn.
Sự kết hợp của các đặc điểm lâm sàng, nội soi và mô học rất hữu ích để phân biệt giữa các nguyên nhân gây ra các triệu chứng tiêu hóa ảnh hưởng đến người ghép thận. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm ruột sau ghép thận rất đa dạng và bệnh nhân thường được chẩn đoán sau khi loại trừ các nguyên nhân khác. Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân có các triệu chứng như tiêu chảy ra máu và đau quặn bụng.
5. Các thuốc điều trị bệnh viêm ruột sau ghép thận
Các nghiên cứu về MMF (thuốc ức chế miễn dịch Mycophenolate mofetil) đã đạt được những kết quả trái ngược nhau, vì trong một số công trình, MMF không thể duy trì sự thuyên giảm ở bệnh nhân bệnh viêm ruột, trong khi những nghiên cứu khác cho thấy rằng việc sử dụng nó dẫn đến cải thiện các triệu chứng.
Tacrolimus và cyclosporine mặc dù có hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa đào thải sau ghép thận nhưng đã được chứng minh là không có hiệu quả trong điều trị bệnh viêm ruột mới khởi phát. Mặc dù các quan sát gần đây trong một quần thể không cấy ghép cho thấy rằng tacrolimus có thể có lợi ích lâm sàng ngắn hạn trong việc quản lý bệnh viêm ruột. Kết quả mâu thuẫn đã thu được ngay cả khi sử dụng azathioprine trong điều trị duy trì.
Timmer và cộng sự đã chứng minh rằng azathioprine kém hiệu quả hơn sulfasalazine hoặc mesalazine do các tác dụng phụ có thể xảy ra như ức chế tủy xương và làm tăng tính nhạy cảm với nhiễm trùng ở những người nhận thận đã bị suy giảm miễn dịch. Azathioprine chỉ nên được sử dụng như một liệu pháp duy trì trong trường hợp thất bại của phác đồ điều trị dựa trên mesalazine hoặc trong trường hợp bệnh nhân cần dùng steroid nhiều lần.
Trong số tất cả các trường hợp được báo cáo về bệnh viêm ruột mới khởi phát thì có 16 trường hợp xảy ra ở những người ghép thận. Những người này đã được điều trị thành công bằng liệu pháp điều trị bệnh viêm ruột thông thường (mesalazine, cortico-steroid và azathioprine). Khoảng một nửa số bệnh nhân đề kháng với liệu pháp bệnh viêm ruột thông thường kết hợp với ức chế miễn dịch.
Tài liệu tham khảo
Gioco R, Corona D, Ekser B, Puzzo L, Inserra G, Pinto F, Schipa C, Privitera F, Veroux P, Veroux M. Gastrointestinal complications after kidney transplantation. World J Gastroenterol 2020; 26(38): 5797-5811 [PMID: 33132635 DOI: 10.3748/wjg.v26.i38.5797]
- Vì sao có hiện tượng thải ghép thận?
- Đặc điểm lâm sàng bệnh mảnh ghép – vật chủ đường tiêu hoá sau ghép thận
- Đào thải sau ghép thận: Những điều cần biết