Mục lục
Bệnh còi xương giảm phospho máu (trước đây được gọi là còi xương kháng vitamin D) là một chứng rối loạn trong đó xương trở nên mềm do lượng phospho trong máu thấp. Các triệu chứng thường bắt đầu ở thời thơ ấu và có thể ở mức độ nghiêm trọng. Các thể nặng của còi xương giảm phospho ở trẻ có thể gây chân vòng kiềng và các biến dạng xương khác như đau xương, đau khớp, xương kém phát triển; và tầm vóc thấp bé.
1. Còi xương giảm phospho ở trẻ là bệnh gì?
Bệnh còi xương do giảm phospho máu di truyền là một rối loạn liên quan đến mức độ thấp của phospho trong máu (giảm phospho máu). Phospho là một khoáng chất cần thiết cho sự hình thành bình thường của xương và răng.
2. Dấu hiệu của còi xương giảm phospho
Trong hầu hết các trường hợp, các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh còi xương phospho di truyền bắt đầu từ thời thơ ấu. Các đặc điểm của rối loạn rất khác nhau, ngay cả giữa các thành viên bị ảnh hưởng trong cùng một gia đình. Những người bị ảnh hưởng nhẹ có thể bị giảm phospho huyết mà không có các dấu hiệu và triệu chứng khác.
Những đứa trẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn sẽ phát triển chậm và thấp hơn so với các bạn cùng lứa tuổi. Bệnh gây ra các bất thường về xương có thể cản trở chuyển động và gây đau xương. Dễ nhận thấy nhất trong số những bất thường này là chân vòng kiềng hoặc đầu gối khuỵu xuống. Những bất thường này trở nên rõ ràng với các hoạt động chịu sức nặng như đi bộ. Nếu không được điều trị, chúng có xu hướng xấu đi theo thời gian.
Các dấu hiệu và triệu chứng khác của bệnh còi xương do giảm phosphat máu di truyền có thể bao gồm sự hợp nhất sớm của xương hộp sọ (craniosynostosis) và các bất thường về răng miệng. Rối loạn này cũng có thể gây ra sự phát triển bất thường của xương, nơi các dây chằng và gân bám vào khớp (bệnh lý dây chằng). Ở người lớn, giảm phospho máu được đặc trưng bởi sự mềm xương được gọi là nhuyễn xương.
Các nhà nghiên cứu đã mô tả một số dạng còi xương phospho di truyền, được phân biệt bởi kiểu di truyền và nguyên nhân di truyền. Dạng rối loạn phổ biến nhất được gọi là bệnh còi xương giảm phospho máu liên kết X (XLH). Nó có kiểu di truyền trội liên kết X. Các dạng lặn liên kết với gen X, trội trên NST thường và các dạng lặn trên NST thường hiếm hơn nhiều.
Một loại rối loạn hiếm gặp khác được gọi là bệnh còi xương do giảm phospho huyết di truyền với tăng canxi niệu (HHRH). Ngoài giảm phospho huyết, tình trạng này được đặc trưng bởi sự bài tiết lượng canxi cao trong nước tiểu (tăng canxi niệu).
3. Còi xương giảm phospho có phổ biến không?
Bệnh còi xương giảm phospho máu liên kết X là dạng bệnh còi xương phổ biến nhất xảy ra trong các gia đình. Nó ảnh hưởng đến khoảng 1 trong 20.000 trẻ sơ sinh. Mỗi dạng khác của bệnh còi xương giảm phosphat máu di truyền chỉ được xác định trong một số gia đình.
4. Nguyên nhân gây còi xương giảm phospho ở trẻ em
Bệnh còi xương do giảm phospho huyết di truyền có thể do đột biến ở một số gen. Các đột biến trong gen PHEX, nguyên nhân gây ra bệnh còi xương do giảm phospho huyết liên kết X, xảy ra thường xuyên nhất. Các đột biến ở các gen khác gây ra các dạng ít phổ biến hơn của tình trạng này.
Bệnh còi xương do giảm phospho huyết di truyền được đặc trưng bởi sự mất cân bằng phospho trong cơ thể. Trong số nhiều chức năng của nó, phospho đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của xương ở thời thơ ấu và giúp duy trì sức mạnh của xương ở người lớn.
Mức độ phospho được kiểm soát phần lớn bởi thận. Thận thường bài tiết lượng phospho dư thừa trong nước tiểu, và chúng tái hấp thu khoáng chất này vào máu khi cần nhiều hơn. Tuy nhiên, ở những người bị còi xương do giảm phospho huyết di truyền, thận không thể tái hấp thu phospho một cách hiệu quả và quá nhiều khoáng chất này được bài tiết ra khỏi cơ thể qua nước tiểu. Kết quả là, không có đủ phosphat có sẵn trong máu để tham gia vào quá trình phát triển và duy trì xương bình thường.
Các gen liên quan đến bệnh còi xương do giảm phosphat máu di truyền có liên quan đến việc duy trì sự cân bằng thích hợp của phosphat. Nhiều gen trong số này, bao gồm cả gen PHEX, điều hòa trực tiếp hoặc gián tiếp một protein gọi là yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi 23 (được tạo ra từ gen FGF23). Protein này thường ức chế khả năng tái hấp thu phosphat vào máu của thận. Đột biến gen làm tăng sản xuất hoặc giảm sự phân hủy của yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi 23. Kết quả hoạt động quá mức của protein này làm giảm tái hấp thu phosphat ở thận, dẫn đến giảm phosphat máu và các đặc điểm liên quan của bệnh còi xương giảm phosphat máu di truyền.
5. Chẩn đoán bệnh còi xương giảm phospho huyết
Để chẩn đoán bệnh còi xương giảm phospho huyết, bác sĩ có thể yêu cầu các xét nghiệm sau:
- Nồng độ canxi, photphat, phosphatase kiềm, 1,25-dihydroxyvitamin D3, PTH, FGF-23 và creatinin trong huyết thanh
- Nồng độ phosphat và creatinin trong nước tiểu (để tính toán sự tái hấp thu phosphat ở ống thận)
- X- quang xương
Nồng độ phosphat huyết thanh giảm, nhưng bài tiết phosphat qua nước tiểu nhiều. Canxi và PTH huyết thanh bình thường, và phosphatase kiềm thường tăng cao. Kích thích sản xuất calcitriol do giảm phosphat máu không xảy ra. Trong bệnh còi xương do calcipenic có giảm calci huyết, giảm phosphat máu nhẹ hoặc không có, và phosphat niệu không tăng.
6. Điều trị bệnh còi xương giảm phospho huyết
Điều trị bệnh còi xương giảm phospho huyết hiện này gồm dùng uống phosphate kết hợp với calcitriol; ngoài ra thuốc burosumab được dùng cho chứng giảm phospho huyết liên kết X. Burosumab là một kháng thể đơn dòng kháng FGF-23 đã trở thành phương pháp điều trị được lựa chọn cho chứng giảm phosphat máu liên kết X (XLH).
- Bé uống vắc-xin phòng bại liệt từ sáng, tối bị nôn liệu có sao không?
- Trẻ 1 tuổi nổi hột trên da như muỗi đốt, 1 tháng chưa khỏi phải làm sao?
- Trẻ sơ sinh đi ngoài phân nhầy xanh kèm mùi chua có sao không?