Chùa Dâu là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam nằm trên đất làng Dâu, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa có nhiều tên gọi: Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự.
Về Bắc Ninh thăm chùa Dâu, ngôi chùa cổ nhất Việt Nam
Chùa Dâu là trung tâm thành cổ Luy Lâu từ thế kỷ thứ II sau công nguyên. Hàng năm chùa mở lễ hội vào ngày 17 tháng giêng âm lịch, đúng vào ngày sinh của Phật Mẫu Man Nương. Chánh hội thì lại được mở vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, trùng với dịp lễ Phật Đản; vào ngày này, nhân dân trong vùng lại nô nức tham dự hội chùa Dâu. Đây là một lễ hội lớn nổi tiếng đã đi vào những câu ca dân gian:
“Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu”.
Theo sử sách và bia đá, đây là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, là nơi giao lưu của hai luồng Phật giáo từ Ấn Độ sang và từ Trung Quốc xuống. Chùa được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 (khởi công năm 187 và hoàn thành năm 226) dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú.
Chùa Dâu thờ nữ thần Pháp Vân nên chùa còn có tên gọi là chùa Pháp Vân và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với truyện cổ tích Tứ pháp của người Việt xưa.
Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ đã đến đây tiến hành truyền bá đạo Phật, lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Chùa tháp được xây cất nguy nga bên cạnh thành quách, đền đài, cung điện, sầm uất của đô thị Luy Lâu.
Trong đó chùa Dâu là trung tâm của hệ thống các chùa thờ Phật và thờ Tứ pháp (Vân, Vũ, Lôi, Điện), một nét độc đáo vì kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của người Việt. Chùa Dâu còn trở thành trung tâm của thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi, thiền phái đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.
Chùa đến nay bao gồm các hạng mục công trình: tiền thất, tháp Hòa Phong, tiền đường, nhà tả vu – hữu vu, tam bảo, hậu đường, hành lang và các công trình phụ trợ.
Kiến trúc chùa Dâu là kết quả của sự trùng tu nhiều lần. Lần quan trọng nhất là lúc vua Trần Anh Tông sai Mạc Đĩnh Chi thiết kế lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Bao quanh tòa điện chính là những dãy nhà ngang, nhà dọc theo kiểu nội công ngoại quốc.
Giữa sân chùa, Mạc Đĩnh Chi đã cho dựng ngôi tháp Hòa Phong cao chín tầng. Ngôi tháp vuông xây bằng gạch trần, dáng chắc khỏe. Tháp tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên vương trấn giữ, trên tháp treo một khánh đồng cổ.
Tháp Hòa Phong xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, giờ tháp chỉ cao khoảng 17m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi. Chân tháp vuông, mỗi cạnh 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm.
Trong tháp có treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương, 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời, cao 1,6 m ở bốn góc tháp.
Khu vực nối tiền thất và hậu đường trong chùa là nơi thờ Thập Bát La Hán (18 đệ tử của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). Ngoài ra, các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện.
Phía sau sân chùa có hồ nước nhỏ trong xanh, không gian thoáng mát. Ngay bên cạnh là vườn tháp cổ, nơi để tro cốt, nhục thân của các thế hệ trụ trì chùa đã viên tịch.
Thời gian trôi qua, thành lũy, đền dài, dinh thự ở trung tâm Luy Lâu bị hoang phế. Nhưng chùa Dâu có tháp Hòa Phong và hàng trăm gian chùa cổ kính vẫn tồn tại. Do đó chùa là danh lam bậc nhất của xứ Kinh Bắc.
Lịch sử đã khẳng định vị trí của chùa Dâu trong đời sống văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc. Chùa đã được công nhận là di tích Lịch sử – Văn hóa Quốc gia đặc biệt vào năm 2013.
Theo iVIVU.com