Miếu Âm Hồn là di tích lịch sử, tâm linh quan trọng gắn với một sự kiện bi thảm, miếu được dựng lên để tưởng niệm vô số các chiến sĩ và đồng bào Huế đã tử nạn trong biến cố “thất thủ kinh đô” kinh hoàng năm 1885.
Di tích miếu Âm Hồn – Địa điểm tâm linh quan trọng của xứ Huế
Sự kiện lịch sử không thể nào quên
Miếu Âm Hồn ngày nay nằm trên đường Mai Thúc Loan thuộc phường Thuận Lộc. Hàng năm vào 23 tháng 5 âm lịch, các cụ già cao niên tề tựu về đây tổ chức cúng tế, tưởng niệm những anh linh đã hi sinh. Đã từ rất lâu, ngày này đã trở thành ngày giỗ chung của toàn thể người dân Cố đô Huế.
Đêm, rạng sáng 23 tháng 5 năm Ất Dậu, Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc vũ trang đánh thẳng vào đồn Pháp ở Mang Cá và khu Tòa Khâm Sứ bên hữu ngạn sông Hương.
Hai đạo quân do Tôn Thất Lệ và Trần Xuân Soạn từ Đại nội Huế đồng loạt nổ súng tấn công. Lúc đầu quân địch rối loạn vì bất ngờ nhưng sau đó đã lấy lại thế trận và phản công đánh chiếm Kinh thành Huế.
Quân địch tấn công ta ở đường Hàng Bè (nay là đường Đào Duy Anh, Huỳnh Thúc Kháng) khi bị đánh chặn ở cống Thanh Long. Địch chuyển sang đường Lê Văn Hưu và tiến theo đường Âm Hồn (nay là đường Lê Thánh Tôn) đánh thẳng và tiến về tấn công Đại nội.
Sáng ngày 5/7/1885, quân Pháp tràn vào Kinh đô đốt phá, giết chóc, cướp bóc kinh hoàng. Một cuộc chạy loạn hết sức đau thương và bi thảm đã xảy ra. Bị ảnh hưởng nặng nề nhất là dân chúng trong thành nội, hầu như gia đình nào cũng có người bỏ mạng đến nỗi sử sách cũng không thể ghi hết lại những nạn nhân trong sự kiện.
Đã có rất nhiều người bị trúng đạn, chen lấn đạp nhau mà chết. Có những người bị ngã xuống khi tìm cách leo ra khỏi thành, hoặc trượt chân rơi xuống chết đuối trong các hồ Tịnh Tâm, hồ Phú Văn… Không đếm xuể bao nhiêu người phải chít vội vành khăn tang cho người thân chết thảm đau đớn.
Thành lập miếu Âm Hồn
Mãi đến gần 10 năm sau, khi thực dân Pháp tiến hành quy hoạch đường phố Huế, đã phát hiện hàng trăm hài cốt, tập trung nhiều nhất ở rãnh cống khu vực hồ Phu Văn. Nơi này là nơi hội tụ nhân dân từ nhiều hướng dồn về để tìm cách thoát ra các cửa Kinh thành.
Sự kiện phát hiện nhiều hài cốt được cấp báo lên bộ Lễ. Rồi hơn 40 thùng sắt được chuyển tới để thu gom các bộ xương tàn đặt tạm tại khu đất góc ngã tư để lo việc tang chay, kinh kệ theo Phật giáo. Những thùng hài cốt đó sau đó được đưa đi an táng tại các nghĩa trang dọc chân núi Ngự Bình.
Để tưởng nhớ, ban đầu đồng bào đã dựng tạm 3 bệ thờ bằng những viên gạch vồ, trên là một tấm đá thanh nguyên. Sau đó nhân dân đã góp tiền xây dựng một thảo am: miếu ở giữa lớn hơn để thờ các quan binh, miếu bên phải thờ các hương linh nữ, miếu bên trái thờ các hương linh nam, gọi là miếu Âm Hồn.
Từ đó, con đường trước mặt miếu cũng được người dân gọi là đường Âm Hồn. Sau 1975 đường được đổi thành Lê Thánh Tôn, nhưng các thế hệ người Huế xưa nay vẫn quen gọi là đường Âm Hồn.
Sau hơn 118 năm, đây luôn là địa điểm tâm linh, văn hóa quan trọng trong tiềm thức người dân xứ Huế. Miếu Âm Hồn được trùng tu từ cuối 2012 đến tháng 1/2013 nhờ vào kinh phí do người dân và chính quyền cùng đóng góp. Quá trình trùng tu đã thay thế các cột chống gỗ, mái ngói được lợp mới, các đồ trang trí cũng được thay đổi.
Hàng năm vào 23/5 âm lịch, lễ cúng âm hồn được tổ chức chu đáo theo nghi thức cổ truyền ở Huế, với những bài văn tế ai oán. Tập tục cúng âm hồn thắm đượm cung cách nhân đạo, nghĩa đồng bào, là lễ hội dân gian tiêu biểu cho vùng đất di sản văn vật.
Theo các nhà nghiên cứu, cùng với miếu Âm Hồn, đàn Âm Hồn cũng là công trình nhà Nguyễn lập ra để tưởng niệm sự kiện đau thương đó. Tuy nhiên cho đến nay chỉ có miếu được người dân biết đến và thắp hương cúng bái, riêng đàn đang được khảo sát tìm kiếm lại vị trí.
Người dân Huế không ai có thể quên được ngày 23/5 năm xưa. Có lẽ chẳng nơi nào trên dải đất hình chữ S có nghi lễ cúng tế quy mô, toàn dân như lễ cúng ở miếu Âm Hồn vào ngày 23 tháng 5 âm lịch hàng năm ở Huế.
Đã 137 năm, lịch sử có lúc thăng trầm nhưng người dân vẫn duy trì lễ cúng một cách kiên trì bằng cả tấm lòng thành, bằng cả lòng yêu quê hương đất nước. Đến Huế trong những ngày tổ chức lễ, du khách sẽ cảm nhận được nghĩa cử cao đẹp, nét văn hóa lâu đời đầy tính nhân văn của người dân nơi đây.